Lịch sử gốm Nghi Hưng

Nghi Hưng là 1 trong những khu vực sản xuất gốm sứ trọng yếu của Trung Quốc, được mệnh danh “đào đô” (kinh đô gốm sứ). Lịch sử chế tác gốm sứ ở Nghi Hưng vô cùng lâu đời, từ rất sớm năm 7300 năm về trước vào thời đại đồ đá mới, thì đã có những ngôi làng cổ nơi được coi là khai sinh ra nghề gốm sứ. Tại Nghi Hưng vẫn còn lưu giữ lại được khá nhiều di chỉ văn hóa, dụng cụ đồ đá mới còn sót lại, khi đó người dân đã nắm giữ được cách nung thành các đồ vật từ đất, cát, kỹ thuật chế tác gốm sứ tinh vi mà chất lượng. Những đồ vật dụng này có thể là đồ dùng để đựng của báu, dụng cụ đựng thức ăn, chứa nước… có thể nói, đồ gốm sứ khi ấy đã trở thành 1 trong những dụng cụ không thể thiếu được.

Đến thời xuân thu chiến quốc, nơi đây trở thành nơi sản xuất ra sứ men xanh nguyên thủy và ấn văn gốm với đường nét hình học vô cùng tinh xảo. Gò chu mạc – nhà Chu (từ thế kỷ 11 đến năm 256 trước CN, do Cơ Phát sáng lập) tại Bạch nê trường đinh thục trấn, tại khu cổ mộ này có phát hiện nhiều dấu tích của sứ men xanh, với chất rắn chắc, mặt cắt có vôi, màu vàng xám, sử dụng công nghệ kéo phôi và tạo hình bằng phương pháp vỗ đập, còn có trăng trí bằng nhiều kiểu hoa văn, phản ánh được những bước tiến về công nghệ ở thời kỳ này.

Đến thời Tần Hán (nước Tần (thời nhà Chu, Trung Quốc, triều đại nhà Tần (221-226 trước công nguyên) (Hán (triều đại Hán, Tây Hán và Đông Hán, từ 206 trước Công Nguyên đến 220 sau Công Nguyên do Lưu Bang lập ra), Nghi Hưng bắt đầu dùng phương pháp nung tạo men cho gốm sứ. Lò ở thời hán này có vẻ khá đông đúc với 16 lò được phát hiện, phần lớn được phân bố trong phạm vi 4 km khu vực kéo dài từ Nam Sơn Bắc Lộc Đinh Thục Trấn. Thời Đông Hán thì có thể nói đã phổ biến lò chế tạo nung tạo men cho gốm sứ. Có thể coi là cơ sở nền tảng phát triển vững chắc cho gốm sứ men xanh “Lục triều nam sơn” nổi tiếng (Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần kế tiếp nhau đều đóng đô ở Kiến Khang, tức Nam Kinh, Trung Quốc ngày nay).

Đến thời Tống (triều đại nhà Tống, triều đại Nam Tống 420-479, do Lưu Dự lập nên); (nhà Tống 960-1279, do Triệu Khuông Dẫn lập nên); gốm sứ Nghi Hưng với số lượng lò nung được phân bố tương đối rộng rãi, chủ yếu tập trung tại 2 khu vực, 1 là trung tâm trấn Đinh Thục, chủ yếu là nung chế tạo chum vò, đàn tế, đồ sứ nhỏ; chén; bát; cối; cối nhỏ làm bằng sứ mà thường ngày hay dùng; 2 là khu vực trung tâm bãi nhỏ phía tây ngũ thánh miếu(miếu khổng tử). chủ yếu nung chế tạo đồ đựng dụng cụ, đựng nước, có tên gọi là “Hàn bình” (tên nước thời Chu, nay thuộc miền Trung tỉnh Hà Nam và miền đông nam tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc).

Đến thời Minh Thanh (triều đại nhà Minh, Trung Quốc, công nguyên 1368-1644, nhà Thanh; đời Thanh (Trung Quốc, công nguyên 1616-1912) gốm sứ Nghi Hưng phồn vinh hơn bao giờ hết. Gốm sứ tử sa từng bước tiến lên 1 tầm cao mới trở thành 1 hệ thống sản xuất độc lập, đồng thời bắt đầu có giao lưu mua bán với ngoại quốc, trong đó với Thái Lan là mạnh nhất. Sản phẩm cũng có tiêu thụ sang cả châu Âu, được gọi với cái tên “hồng sắc sứ khí” (gốm sứ màu đỏ). Có thể do lúc này sản phẩm đang được đón chào nồng nhiệt, tại Pháp còn xuất hiện hàng giả. Khi mà đồ gốm bắt đầu được lưu hành rộng rãi, 1 phần sản phẩm tinh xảo được dùng trong hoàng thất đồng thời từ đó mà nảy sinh ra làm mô phỏng, làm nhái hòng chuộc lợi. Sản phẩm được tiêu thụ qua cả Nhật Bản, Đông Nam Á, châu Mỹ, được ca ngợi với cái tên “Cổ kim trung ngoại vô dữ luân bỉ đích danh khí” (khí cụ nổi danh thiên cổ không gì sánh bằng).

“Thục sơn diêu” “Âu diêu” và “Nghi hưng diêu” được phân biệt để chế tác sứ tử sa, quân đào (khuôn đóng gạch gói ngày xưa), nhật đào (đồ dùng hàng ngày), 3 nơi này được coi là lò nung gốm sứ trứ danh hậu thế. Trấn Nghi Hưng là khu mà tiểu thương tập hợp khá sầm uất, được mệnh danh “Thiên bách lí ngoại xu chi nhược vụ” (trong ngoài hơn dặm bon chen buôn bán) ; “Thương cổ dương phàm nhi hiểu dạ hành” (thương nhân giương buồn thuận lợi mà kinh doanh); “Sơn thôn uyển nhiên đô hội” (nơi núi rừng thôn dã mà sầm uất như đô thành kinh kỳ). Trong Đinh Thục trấn có mật độ lò nung chi chít, trở thành khu lò nung phồn thịnh bậc nhất. Hơn 70 lò nung lớn nhỏ tập trung tại chân núi phía bắc Thanh Long và vùng phụ cận trong bảo khố chùa, cùng với Thục Sơn, Thang Độ, Nhâm Thự, Hồ Độc, Tiềm Lạc, Thượng Viên…

Từ Cách mạng Tân Hợi về sau, gốm sứ Nghi Hưng xuất hiện rầm rộ, theo ghi chép lại vào năm1919《tỉnh Giang Tô thực nghiệp khảo sát báo cáo》cùng với tỉnh trưởng Giang Tô điều tra, có ghi chép lại rằng “Nghi hưng đào từ, danh trì trung ngoại” (gốm sứ Nghi Hưng nổi danh trong và ngoài nước), thị trấn đông nam Đinh Sơn, Thục Sơn, thang độ, xuyên phụ vùng thì “gia gia chế bôi, hộ hộ chủy nê” (nhà nhà chế phôi, người người luyện bùn), “Y thực sở nhu duy đào nghiệp thị lại” (cơm áo gạo tiền đều dựa vào gốm sứ). Sau do chiến tranh loạn lạc, thời cuộc rung chuyển, trăm nghiệp đều dẫn tới cảnh tiêu điều, cho tới thời dân quốc 37 năm (1948), còn sót lại 46 lò nung mà thôi.

Có điều, sau khi thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, gốm sứ Nghi Hưng dần dần được khôi phục. Vào những năm 50 của thế kỷ 20, lò nung lại phát triển lên đến 70 lò, nhiều nhất tại Bạch Đãng, Đinh Nam, Lễ Thự, Hồ Độc, Thục Sơn, Tiền Thự và Thang Độ của Đinh Thục trấn. Tùy theo sựu cải cách thay đổi về lò nung và nguyên liệu dùng đốt, từ những năm 60 của thế kỷ 20 bắt đầu lò nung được sửa thành lò nung ngầm, lò nung điện… đến nay chỉ còn sót lại 1 lò nung kiểu cũ là còn sử dụng để nung gốm sứ mà thôi.

Mà Nghi Hưng gốm sứ cũng xuất hiện  những sản phẩm ngày 1 đa dạng tựa như hoa thơm cỏ lạ tranh nhau muôn vẻ tươi đẹp, sắc màu rực rỡ mang lại cục diện nhộn nhịp cho nơi đây. Thậm chí có phần các sản phẩm đạt được độ thưởng thức trên nhiều mục đích sử dụng như pha trà, đựng thức ăn, rượu, lại có thiết kế kiến trúc gốm sứ tinh tế cầu kỳ; lại có mới mẻ độc đáo rất khác biệt, nghệ thuật trần thiết gốm sứ; còn mở rộng khai phá gốm sứ với lĩnh vực mới, đó là ngành công nghiệp đặc chủng gốm sứ, điện tử, đồ điện gốm sứ, đặc điểm vật liệu chịu lửa chờ kỹ thuật cao. Gốm sứ Nghi Hưng đã trở thành “Đào đô”, tổng sản lượng gốm sứ công nghiệp tập trung chiếm “nửa giang san”.

Nghệ thuật gốm sứ của Nghi Hưng có thể nói là “ngũ đóa kim hoa”, điều chỉ ra ở đây rằng nó thấm nhuần vẻ chất phác cổ xưa, tử sa với công nghệ tinh xảo, xanh ngắt hy vọng, băng khiết giống như ngọc sứ men xanh, đẹp rực rỡ muôn vẻ, đoan trang ngưng đọng, thai chất rắn chắc, mỹ quan dùng bền cùng màu sắc men sặc sỡ. Trong đó tử sa lấy yếu tố văn hóa lắng đọng lại, mang trên thân mình yếu tố văn hóa lịch sử mạnh mẽ nhất, trên thế giới nghệ thuật gốm sứ cũng có riêng một ngọn cờ, được vinh danh “Thế giới trà cụ xưng vi thủ”. Tháng 5 năm 2006, “Nghi Hưng tử sa đào chế tác kỳ nghệ” được nguyên thủ quốc gia thủ phê là di sản văn hóa phi vật chất. Cùng năm đó vào tháng 10, học viên gốm sứ Trung Quốc và học viện gốm sứ Trung Hoa Mỹ Quốc đều lần lượt tiếp nhận “Nghi Hưng thế giới chế hồ trung tâm” và “Thế giới trà hồ chi đô”.

Bài viết cùng chủ đề: